preloader image

Bí mật của màu sắc phần 1

Vì sao hai màu đặt cạnh nhau lại ngân lên thành tiếng hát?

Liệu có thể thực sự giải thích điều đó? Không thể.

Cũng như người ta không bao giờ có thể học được phải vẽ như thế nào.

Pablo Picasso

1) Màu sắc từ đâu mà ra?

Liệu màu sắc có phải là thuộc tính của vạn vật trong tự nhiên như một thực tại khách quan?

Câu trả lời là KHÔNG.

Đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím chỉ là những cái tên con người đặt ra để phân biệt cảm nhận của mình về sự tương tác của ánh sáng với vật chất. Không một màu nào tồn tại khách quan trong tự nhiên.

spectrum

H.1 – Phổ sóng điện từ

Ánh sáng là một dạng năng lượng có tính nhị nguyên: vừa là hạt lại vừa là sóng điện từ với các bước sóng khác nhau[1]. Ánh sáng tự nó không có màu sắc. Phổ sóng điện từ rất rộng, trải dài từ các sóng radio có bước sóng cỡ hàng trăm ngàn km, tới các sóng tia X, tia gamma với bước sóng ngắn hơn 1 phần ngàn tỉ meter (10-12 m, hay 1 phẩn ngàn nanometer, nm). Trong dải phổ sóng điện từ với những bước sóng dài bát ngát đó, phần phổ của ánh sáng mắt người có thể nhìn thấy chỉ chiếm một phần không đáng kể, từ 780 nm xuống tới 380 nm.

Ánh sáng chui vào mắt người qua thủy tinh thể, rồi hội tụ trên võng mạc. Võng mạc gồm hàng triệu tế bào nhạy quang làm nhiệm vụ truyền tín hiệu nhận được lên não qua thần kinh thị giác. Các tế bào nhạy quang gồm 2 loại là các tế bào que (hay tế bào gậy, hình cái que, rod cells) và các tế bào nón (hình nón, cone cells). Mỗi con mắt có khoảng 120 triệu tế bào que và chừng 6 triệu tế bào nón. Các tế bào que làm nhiệm vụ ghi nhận thông tin về độ sáng tối, chuyển động. Các tế bào nón tập trung ở phần giữa võng mạc. Mỗi tế bào nón có các quang sắc tố phù hợp với một dải bước sóng riêng biệt trong phổ ánh sáng. Khi chúng thu được tín hiệu ánh sáng có bước sóng phù hợp, chúng tạo ra phản ứng điện hóa. Có 3 loại tế bào nón trong mắt người phản ứng với 3 vùng ánh sáng có bước sóng dài, trung bình, và ngắn, lần lượt được gọi làcác tế bào nón dài (long cone cells), trung bình (medium cone cells), và ngắn (short cone cells).

Sagschem

H. 2 – Trái: Tiết diện mắt người. Phải: Tiết diện võng mạc.

Các vật trong tự nhiên tự chúng không có màu sắc, mà chỉ hấp thụ, truyền tải và phản xạ ánh sáng chiếu vào chúng. Vì tính chất hấp thụ, truyền, và phản xạ ánh sáng của vật này khác tính chất này ở vật khác, khi ánh sáng phản xạ từ các vật khác nhau chui vào mắt ta, các tế bào nón và que trên võng mạc ghi nhận các bước sóng ánh sáng khác nhau từ các vật khác nhau. Các tín hiệu này được truyền tới các tế bào hạch (ganglion cells). Các tế bào hạch so sánh thông tin từ các tế bào nón để xác định số lượng sóng ánh sáng từ các vùng sóng ngắn, trung và dài. Sau đó các tín hiệu về tỉ số giữa các vùng sóng và sáng – tối được truyền qua thần kinh thị giác lên não để được xử lý như các màu khác nhau trong phổ ánh sáng nhìn thấy được như sau:

spectrum

H. 3 – Bước sóng của các tia đơn sắc trong phổ ánh sáng mà mắt người có thể nhìn thấy.

Vùng bước sóng ngắn hơn 380 nm nhưng dài hơn khoảng 10 nm (tia X) là vùng tia cực tím (ultraviolet, viết tắt UV). Vùng bước sóng dài hơn 750 nm nhưng ngắn hơn khoảng 3.3 mm là vùng tia hồng ngoại (infrared, viết tắt IR). Mắt người không nhìn được hai vùng ánh sáng này song một số động vật và côn trùng có thể nhìn thấy tia cực tím hoặc cảm nhận được nhiệt từ tia hồng ngoại.

Ánh sáng trắng là ánh sáng trong đó tất cả các bước sóng trong phổ mắt người nhìn thấy hoà với tỉ lệ bằng nhau. Nếu số bước sóng nào đó nhiều hơn, ánh sáng sẽ có màu ngả về phía bước sóng đó. Vì thế một vật có màu trắng (màu đen) khi nó phản chiếu (hấp thụ) toàn bộ hoặc phần lớn ánh sáng chiếu lên nó. Lá cây có màu lục vì chúng có các sắc tố hấp thụ phần bước sóng dài (đỏ) và ngắn (lam) trong phổ ánh sáng và chỉ phản xạ các bước sóng trong phần màu lục (495 – 570 nm) tới mắt người nhìn. Quá trình hấp thụ ánh sáng không chỉ xảy ra khi ánh sáng bị phản xạ từ các bề mặt, mà cả khi ánh sáng chiếu xuyên qua các chất bán trong như các kính lọc sắc (filter) hay qua không khí, ví dụ kính lọc sắc lam hấp thụ các tia đỏ và lục. Tương tự như vậy các tổ hợp khác nhau của các tia sáng khác nhau có thể tạo ra cùng một màu như nhau. Do đó các mô hình hoà sắc khác nhau vẫn có thể tạo ra kết quả như nhau từ các màu sơ cấp khác nhau.

442px-Ewald_Hering2

Karl Ewald Konstantin Hering
(1834 – 1918) –
ông tổ của lý thuyết đối lập màu sắc.

Bằng cách nào mà các tế bào nón thu nhận và tổng hợp thông tin để cho chúng ta trải nghiệm về màu sắc đến nay vẫn còn là một câu hỏi chưa có câu trả lời thoả đáng. Theo lý thuyết về quá trình đối lập màu sắc (opponent color process) – do nhà sinh lý học người Đức Ewald Hering (1834 – 1918) đề xuất năm 1892, sau đó được Leo Hurvich (1910 – 2009) và vợ là Dorothea Jameson (1920 – 1998)  kiểm chứng năm 1957, rồi được Richard Solomon (1918 – 1995) mở rộng năm 1970, hệ thống thị giác của con người thiên về so sánh sự khác nhau giữa phản ứng của 3 loại các tế bào nón hơn là phản ứng riêng rẽ của từng loại tế bào. Có 3 kênh màu đối lập (><) liên lạc bằng điện hoá với não: đỏ >< lục, lam >< vàng, và đen >< trắng. Kênh đen trắng là kênh tiêu sắc, tức không màu, vì trắng và đen không phải là màu trong ánh sáng. Kênh này chỉ ghi nhận độ sáng tối. Các tế bào hạch so sánh thông tin từ các tế bào nón dài (vùng ánh sáng đỏ) với thông tin từ các tế bào nón trung (vùng ánh sáng lục) để xác định độ đậm nhạt, trong khi thông tin từ các tế bào nón dài (vùng ánh sáng đỏ) và ngắn (vùng ánh sáng lam) được so sánh với thông tin từ các tế bào nón trung (vùng ánh sáng lục) để xác định độ “đỏ” hoặc “lục”, còn thông tin từ các tế bào nón ngắn (vùng ánh sáng lam) thì được so sánh với vùng đỏ và lục để độ “lam” hay “vàng”. Như vậy các màu đối lập không bao giờ được cảm nhận cùng nhau. Khi nhìn ranh giới giữa hai màu đỏ và lục (cùng tone) đặt cạnh nhau, ta thấy ranh giới này nhấp nháy, mà ta gọi là màu “đánh nhau”.

cone-spectral-sensitivitie

H. 4 (a) – Độ nhạy cảm (độ hấp thụ tương đối) của các tế bào que và nón theo bước sóng ánh sáng.

407c7417cf628133470cf30ac37ccc4aa9600c31

H.4 (b) – 6 màu sơ cấp theo lý thuyết về quá trình đối lập màu sắc: đen >< trắng, đỏ >< lục, và lam >< vàng.

Khi ta nhìn vào một hình vuông có màu là một trong 6 màu sơ cấp nói trên, ví dụ màu đỏ, rồi sau đó nhìn sang một mặt phẳng trắng, ta thấy xuất hiện một hình vuông có màu đối lập (hay màu bù) với nó, trong trường hợp này là màu lục. Ảo giác này gọi là hiện tượngdư ảnh (afterimage). Điều quan trọng ở đây là mắt người rất nhạy cảm với các màu đỏ, vàng, lục, lam, đen và trắng, được coi là 6màu sơ cấp (primary colors) trong lý thuyết quá trình đối lập màu sắc. Vì thế các tổ hợp của 3 ánh sáng đỏ, lục và lam với cường độ khác nhau có thể tạo ra trải nghiệm về các màu khác nhau trong não người. Đó là bản chất của các mô hình nhằm tạo nên các hoà sắc từ 3 màu đỏ (R), lục (G) và lam (B) theo lý thuyết cộng màu, hay cyan (C) – màu giữa lục và lam, magenta (M) – màu giữa tím và đỏ, và vàng (Y)  theo lý thuyết trừ màu (Xem mục 3 và 4).

leaf

H. 5 (a) – Ví dụ về dư ảnh: (Trên) Nhìn tập trung khoảng 30 giây vào chấm đen ở giữa chiếc lá, sau đó nhìn sang nền trắng bên phải sẽ thấy âm bản: chiếc là màu lục hoặc cyan viền vàng.

negative-photo-illusion

H. 5 (b) – Nhìn tập trung khoảng 30 giây vào chấm đỏ ở mi mắt cô gái trong bức hình âm bản bên trái, sau đó nhìn tập trung vào dấu “x” trên nền trắng bên phải sẽ thấy hình dương bản chân dung cô gái.

2) Các mô hình màu sắc 

a) Thời Cổ Đại, Trung Cổ và Phục Hưng

Con người biết vẽ hàng chục ngàn năm trước khi biết viết. Người ta đã tìm thấy các bức hoạ được vẽ cách đây tới 35-40 ngàn năm trong các hang động tại châu Âu và Úc, trong khi chữ viết xuất hiện khoảng 3500 – 4000 năm về trước. Aristotle (384 – 322 tr CN) là người  đã xây dựng lý thuyết đầu tiên về màu sắc. Aritstotle cho rằng màu sắc là thuộc tính của bề mặt vật chất, tia nhìn của người, cũng tương tự như sự sờ mó, phóng ra từ mắt chạm vào vật chất khiến ta biết được màu của chúng. Theo ông, các màu đỏ, da cam, vàng, lục, lam, tím chỉ là sự chuyển đổi sắc độ giữa màu đen và màu trắng. Aristotle là người đầu tiên cho rằng 3 màu đỏ, lục và lam-tím của cầu vồng là 3 màu duy nhất mà các hoạ sĩ không thể nào pha ra được.[2] Lý thuyết màu sắc của Aristotle sau này được nhà toán học François d’Aguilon (1567-1617) tại Bruxelles kế thừa trong tác phẩm Opticorum libri sex (Quang học 6 chương)[3] được minh họa bởi danh hoạ Peter Paul Rubens (1577 – 1640). D’Aguilon coi đỏ, vàng và lam là 3 sắc “cao quý” mà từ đó có thể tạo ra tất cả các màu khác. Đó là quan niệm từ thời Trung cổ khởi đầu cho công cuộc truy tìm các màu sơ cấp.

Mô hình màu sắc do hoạ sĩ xây dựng xuất hiện lần đầu tiên vào cuối t.k. XIV trong tác phẩm của Cennino Cennini (1370 – 1440), trong đó ông cho biết hoạ sĩ dùng 7 màu gồm 4 màu từ khoáng chất tự nhiên là đen, đỏ, vàng, lục, và 3 màu tự tạo là phấn trắng, lam ultramarine (từ đá lapis lazuli) hay lam azurite (khoáng vật đồng), và vàng. Các màu này  được làm từ các chất màu (color pigments). Màu vàng khoáng chất thường là vàng đất (ochre) tức hydrated oxide sắt (Fe2O3 • H2O) (ochre vàng kim) hay oxide sắt (Fe2O3) (ochre đỏ). Màu vàng nhân tạo là phẩm nhuộm. Như vậyđối với hoạ sĩ, màu sơ cấp là các chất màu (hay hạt bột màu).  Sắc của chất màu chỉ được thể hiện đúng trong màu tinh khiết hay màu nguyên khi màu ở dạng bão hòa về sắc tức “no” nhất.  Hoạ sĩ pha màu trắng vào màu nguyên để làm sáng màu lên, và pha màu đen vào để làm tối màu đi.

cennini

H. 6 – Sơ đồ của Cennino Cennini về sắc độ trong tranh.
Highlight: Phần sáng nhất, Lit surface: Bề mặt được chiếu sáng, Terminator: Imprimatura, Shadow: Bóng tối
W: trắng, C: màu nguyên, U: Màu vẽ lót, Bk: Đen

Các màu nguyên khi được trộn với nhau đều bị xỉn đi. Vì thế các hoạ sĩ thời Cổ đại, Trung cổ, Phục hưng, và Baroque tránh pha trộn các màu nguyên với nhau. TuyLeonardo Da Vinci (1452 – 1519) coi 6 màu trắng, vàng, đỏ, lục, lam và đen là 6 màu sơ cấp, những màu này không bao giờ được coi là các màu cơ bản để pha ra các màu thứ cấp như trong các mô hình hoà sắc sau này, mà chỉ được dùng để định vị trong hệ thống hoà sắc. Các bậc thầy cổ điển đã dùng kỹ thuật vẽ nhiều lớp để giảm thiểu sự pha trộn các màu nguyên trong hội hoạ sơn dầu. Đầu tiên họ vẽ lót để xây dựng không gian và hình khối chỉ dùng 3 màu trắng, đen (hoặc nâu tối), và ochre. Sau đó họ láng màu lên lớp vẽ lót đã khô. Các màu trung gian được tạo bởi láng các màu nguyên lên nhau. Ví dụ khi vẽ màu da thịt các bậc thầy cổ điển không pha vàng với đỏ và trắng trên palette. Họ vẽ lót bằng trắng chì với nâu tối, lục đất, rồi láng đỏ vermillion hay đỏ carmine lake lên. Màu lục được tạo bởi láng màu ultramarine lên màu vành chanh đã khô, chứ không phải trộn ultramarine với vàng chanh trên palette. Nhờ đó bóng tối trong các kiệt tác của Leonardo, Rembrandt, Vermeer v.v. sau nhiều thế kỷ vẫn trong và sâu thẳm chứ không nông choèn và bẩn như các hoà sắc bóng tối được pha trộn từ các màu bù nhau (complementary colors) trên palette của nhiều hoạ sĩ trường phái Ấn tượng sau này. Nghệ thuật hòa sắc được xây dựng trên kỹ thuật vẽ nhiều lớp của các bậc thầy cổ điển cho tới giờ vẫn được coi là tuyệt  đỉnh của hội hoạ sơn dầu. Tiếc thay nó đã bị mai một kể từ trào lưu Ấn tượng trong hội hoạ cuối t.k XIX, khi các hoạ sĩ bắt đầu hy sinh truyền thống để đánh đổi lấy cái “độc đáo”.

b) Mô hình màu sắc từ t.k. XVII

Sự phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật trong t.k. XVII và thời kỳ Khai sáng của t.k. XVIII đã thúc đẩy các ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn. Việc các nhà hoá học cuối t.k. XVII tập trung nghiên cứu các chất màu và thuốc nhuộm để ứng dụng trong kỹ nghệ dệt đã khiến khoa học chú ý tới các thực hành của hoạ sĩ. Năm 1664 nhà hóa học Robert Boyle (1627 – 1691) người Ái-Nhĩ-Lan coi 5 màu đen, trắng, đỏ, vàng, và lam là các màu sơ cấp, có thể mô phỏng sắc của vô số các màu khác nhau trong tự nhiên, tuy không phải lúc nào cũng đủ độ lộng lẫy.

Lý thuyết màu sắc của Newton:

Nhưng toàn bộ lý thuyết trừu tượng và rắc rối về màu sắc của thời Baroque đã bị Isaac Newton (1642 – 1721) lật nhào bằng thí nghiệm tán sắc ánh sáng vào năm 1671. Newton phát hiện ra rằng chùm ánh sáng trắng khi đi qua một lăng kính thì bị tách ra thành 7 chùm ánh sáng có màu đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm và tím. Bảy chùm ánh sáng đơn sắc này sau khi đi qua một lăng kính lộn ngược thì lại hợp nhất thành chùm ánh sáng trắng. Sự đột phá mang tính cách mạng trong tư duy đã xảy ra khi Newton tách riêng khía cạnh toán học và khía cạnh tâm lý trong quan niệm về màu sắc. Ông đã chứng tỏ rằng các chùm ánh sáng có màu khác nhau trong quang phổ khi chiếu qua vật chất thì bị khúc xạ theo một góc khác nhau. Đó là lý do khiến khi chiếu qua lăng kính, ánh sáng trắng, do các ánh sáng đơn sắc hợp thành, bị tách ra thành 7 chùm ánh sáng đơn sắc. Ông tuyên bố ánh sáng tự nó không có màu sắc mà chỉ có sức mạnh và khả năng kích động cảm giác về màu sắc trong tâm trí người quan sát.

Isaac Newton

H. 7 (a) – Isaac Newton (1642 – 1721)

Newton_experiment

H. 7 (b) – Isaac Newton làm thí nghiệm tán sắc ánh sáng.

Newton coi cả 7 màu đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm và tím là 7 màu sơ cấp bởi không có màu nào có thể bị đổi sang màu khác bằng khúc xạ. Nhưng ông cũng phát hiện ra rằng chúng có thể hoà trộn với nhau. Đặc biệt, ông phát hiện ra vùng ánh sáng ngoại quang phổ (tức không có trong phổ ánh sáng trắng với 7 màu nói trên) khi ông chiếu đầu này của phổ ánh sáng (tím) chồng lên đầu kia (đỏ). Ông thu được màu mà sau này có tên làmagenta [4]. Newton cũng phát hiện ra rằng khi chiếu 3 hoặc 4 chùm ánh sáng đơn sắc chồng lên nhau, chúng có thể hoà màu thành màu trắng.

extrah

H. 8 – Màu magenta (giữa) được tạo bởi chiếu chồng lên nhau hai đầu tím (trái) và đỏ (phải) của quang phổ.

Từ quan sát này Newton đã “dán” đầu và đuôi của phổ ánh sáng nhìn thấy được để sáng tạo ra vòng màu sắc đầu tiên.

newton

H. 9 – Vòng màu sắc của Isaac Newton

Trong vòng màu sắc này, Newton xếp 7 màu tương ứng với 7 cung trong âm nhạc như sau:

Đỏ tương ứng với 1 cung giữa Ré (D) và Mi (E),

Da cam – ½ cung giữa Mi (E) và Fa (F),

Vàng – 1 cung giữa Fa (F) và Sol (G),

Lục – 1 cung giữa Sol (G) và La (A),

Lam – 1 cung giữa La (A) và Si (B),

Chàm – ½ cung giữa Si (B) và Do (C),

Tím – 1 cung giữa Do (C) và Ré (D),

trong đó diện tích các phần EF, hay BC chỉ bằng một nửa diện tích của một trong các phần CD, DE, FG, GA, AB, tương tự như trong gam Do trưởng (C major).

Tuy vậy Newton đã nhầm lẫn khi đồng nhất màu của màu vẽ với ánh sáng mà nó phản chiếu. Thời đó người ta chưa hiểu về ánh sáng hòa sắc theo luật cộng màu trong khi màu vẽ hoà với nhau theo luật trừ màu. Khi trộn chất màu đỏ, vàng và lam với nhau, Newton đã đồng nhất màu xám thu được với ánh sáng trắng do 3 chùm ánh sáng đỏ, lục và lam hòa với nhau tạo thành.  Vì thế Newton đã cho rằng màu vẽ cũng có 7 màu sơ cấp: đỏ, da cam, vàng, lục, làm, chàm, tím, và những màu này cũng hòa với nhau theo quy luật tương tự như 7 màu của quang phổ. Kết luận của Newton mâu thuẫn rõ ràng với thực tế bởi người ta nhanh chóng nhận thấy rằng khi trộn màu vẽ đỏ và lục với nhau, người ta không thu được màu vàng như Newton nói, mà chỉ thu được một màu xám ngoét. Cuộc tranh cãi giữa những người ủng hộ lý thuyết hoà sắc của Newton và những người chống đối đã kéo dài hơn 1 thế kỷ.

Mô hình màu sắc của Le Blon:

Năm 1710 hoạ sĩ đồng thời là thợ in khắc và doanh nhân người ĐứcJacob Christoph Le Blon (1667 – 1741) đã phát minh ra phương pháp in màu dùng 3 khuôn in lõm với 3 màu sơ cấp đỏ, vàng và lam. Năm 1721, Le Blon xuất bản bức hình in màu nhan đề “Préparation anatomique des parties de l’homme servant à la génération, faite sur les découvertes les plus modernes” (Chuẩn bị giải phẫu các bộ phận cơ thể người phục vụ cho sinh sản, thực hiện trên cơ sở các khám phá hiện đại nhất), in một cái dương vật người được mổ phanh. Đây là một trong các bức in màu khắc lõm đầu tiên được xuất bản trong lịch sử. Năm 1725 Le Blon xuất bản cuốn sách nhan đề “Coloritto: hay sự hài hòa của hòa sắc trong hộì hoạ quy về ứng dụng cơ học” (Coloritto: or the Harmony of Coloring in Painting Reduced to Mechanical Practice). Le Blon là một trong những người đầu tiên chỉ ra sự khác nhau giữa hòa sắc cộng màu và hòa sắc trừ màu. Ông viết: “Hội hoạ, với 3 màu đỏ, vàng và lam, có thể biểu thị tất cả các vật nhìn thấy được, bởi lẽ tất cả các màu khác đều được tạo bởi 3 màu đó, mà tôi gọi là 3 màu sơ khai. Sự pha trộn của 3 màu nguyên thủy này tạo ra màu đen, và tất cả các màu khác… Tôi chỉ nói về màu chất liệu, hay các màu mà hoạ sĩ dùng, bởi lẽ sự pha trộn tất cả các màu không sờ mó được (ánh sáng), mà ta không cảm thấy, sẽ không tạo ra màu đen mà, hoàn toàn ngược lại, tạo ra màu trắng, như ngài Isaac Newton vĩ đại đã chứng tỏ trong cuốn “Quang học”.Trắng là sự tập trung, hay dư thừa ánh sáng. Đen là sự che giấu sâu kín, hay không có ánh sáng.”

Công trình của Le Blon là khởi đầu cho sự ra đời của một loạt mô hình hoà sắc trong t.k. XVIII.

leblon9

H. 10 (a) – J.C. Le Blon, Chuẩn bị giải phẫu các bộ phận cơ thể người phục vụ cho sinh sản, thực hiện trên cơ sở các khám phá hiện đại nhất
(Préparation anatomique des parties de l’homme servant à la génération, faite sur les découvertes les plus modernes) (1721)

540px-Le_Blon_three-color_printing

H. 10 (b) – Trang trong cuốn “Coloritto” (1725) của J.C. Le Blon ghi luật pha mầu vẽ: vàng + đỏ = da cam, đỏ + lam = tím, lam + vàng = lục.

Tam giác màu sắc cuả Mayer

Vòng màu của Newton chỉ cho thấy sự thay đổi của sắc và độ bão hòa của từng màu chứ không cho thấy độ sáng tối của các màu thay đổi như thế nào. Các lý thuyết gia t.k. XVIII mong muốn xây dựng mô hình màu sắc đảm bảo 4 tiêu chuẩn:

i) mô hình phải phân loại tất cả các màu sắc có thể được tạo bởi tổ hợp của các màu cơ bản, được gọi là các màu sơ cấp,

ii) mô hình phải có một cấu trúc hình học chỉ rõ vị trí của các màu, mối tương quan giữ chúng với nhau và với các màu sơ cấp,

iii) chuẩn hóa tên các màu,

iv) công thức pha trộn màu để có thể tạo ra các màu giống màu của vật tự nhiên hoặc nhân tạo.

Mayer_Tobias

H. 11 – Tobias Mayer (1723 – 1762)

Hệ thống trật tự màu sắc toàn diện đầu tiên đã được nhà toán học và thiên văn học người Đức Tobias Mayer (1723 – 1762) đề xuất vào năn 1758. Tam giác màu sắc này dựa trên 3 màu tinh khiết của hoạ sĩ là đỏ thần sa (cinnabar), vàng Cao Miên (gamboge) và lam azurite (khoáng vật đồng), nằm tại 3 đỉnh, và được lấp đầy bởi các chuyển sắc giữa 3 màu này. Mỗi cạnh tam giác có 12 chuyển sắc – con số chuyển sắc lớn nhất mà Mayer cho rằng mắt người có thể phân biệt được. Dùng tam giác màu sắc của Mayer người ta có thể đi từ các màu sơ cấp tại 3 đỉnh sang các ô màu khác nhau và biết chính xác tỉ lệ đỏ, vàng và lam để pha được màu của mỗi ô. Ô ở tâm tam giác có tỉ lệ đỏ (R), vàng (Y), lam (B) bằng nhau, được Mayer ký hiệu là r4y4b4. Mayer còn mở rộng tam giác cho không gian 3 chiều bằng cách thêm trục đen trắng vuông góc với mặt phẳng tam giác. Theo trục này các màu sáng hơn do thêm trắng được xếp tại các tam giác nằm ở tầng trên so với tam giác màu cơ sở, tẩng càng cao có màu càng sáng, còn các màu tối hơn do thêm đen được xếp tại các tam giác nằm ở tầng “dưới đất” so với tam giác màu cơ sở, tầng càng sâu có màu càng tối. Toàn bộ không gian màu sắc của Mayer có 819 màu.

mayer

H. 12 – Tam giác hòa sắc (trái) và tháp hòa sắc (giữa) của Tobias Mayer. Phải: bản năm 1775 theo Lichtenberg.

Tuy là một bước tiến vượt bậc so với mô hình của Le Blon, song hệ thống màu sắc của Mayer có các nhược điểm như sau: Các tổ hợp bất kỳ của 3 mầu sơ cấp trong hệ thống của Mayer không thể tạo ra tất cả các màu sắc; hệ thống hoà sắc của Mayer không thể áp dụng được cho cả chất màu và ánh sáng bất chấp khẳng định của ông;  không có một thang chuyển sắc độ liên tục từ đen sang trắng hoặc thiếu trục bão hòa do đó khó diễn giải chuyển đổi màu; mô hình khó áp dụng trong thực tiễn vì các chất màu thực tế có độ nhuộm khác nhau nên tỉ lệ trên tam giác của Mayer có khi cho màu xám bẩn.

Bánh xe màu sắc của Harris

Năm 1766 nhà nghiên cứu côn trùng và hoạ sĩ đồ hoạ người AnhMoses Harris (1730 – 1788) xuất bản cuốn sách nhan đề  “Hệ thống tự nhiên của màu sắc”, trong đó ông xây dựng một bánh xe hòa sắc dựa trên 3 màu sơ cấp đỏ, vàng và lam. Ông là người đầu tiên đề xuất ý tưởng về sự tương phản giữa các màu bù nhau, và đưa ý tưởng đó vào bánh xe hoà sắc của mình. Ông viết: “Nếu muốn một màu hay sắc độ tương phản trong bánh xa màu sắc, hãy nhìn vào màu đối diện. Chẳng hạn nếu muốn tìm màu nào là màu tương phản nhất với màu đỏ, hãy nhìn vào màu đối diện với nó trên bánh xe – đó là màu lục. Màu ngược nhất với lam là da cam, và ngược nhất với vàng là tím.” Bánh xe hòa sắc của Harrris đã gây ảnh hưởng rất lớn tới các hoạ sĩ, trong đó có Joseph Turner (1775 – 1851) – danh hoạ Anh với các bức hoạ dự báo sự ra đời của hội hoạ Ấn tượng Pháp vào t.k. XIX. Bánh xe hòa sắc của Harris cũng đã khởi xướng cho sự ra đời của một loạt các bánh xe hòa sắc của các tác giả khác như của James Sowerby năm 1809, George Field năm 1817 và Charles Hayter năm 1826. Những người chống đối lý thuyết hoà sắc của Newton dùng bánh xe hòa sắc của Harris như một bằng chứng rằng trên thực tế màu sắc hòa với nhau không tuân theo quy luật hòa sắc của ánh sáng.

instructions_5-2

H. 13 – Bánh xe hòa sắc của Moses Harris năm 1766.

Quả cầu màu sắc của Runge

Runge

H. 14 – Philipp Otto Runge (1777 – 1810) và sơ đồ quả cầu màu sắc của ông.

Hoạ sĩ người Đức Philipp Otto Runge (1777 – 1810) là người đề xuất hệ thống hòa sắc hiện đại đầu tiên. Mô hình quả cầu hoà sắc của Runge (xuất bản năm 1810) dùng 3 màu sơ cấp đó vàng, lam cùng 2 màu đen và trắng để tạo ra tất cả các màu còn lại. Trên quả cầu của Runge độ sáng được xếp theo đường vĩ tuyến, trong khi sắc được xếp theo kinh tuyến, còn độ bão hòa màu sắc được tính từ tâm ra mặt quả cầu. Đây là lần đầu tiên mỗi màu có vị trí chính xác trong tương quan với tất cả các màu nguyên cũng như các pha trộn. Tiếc rằng Runge đã mất năm 33 tuổi vì bệnh lao, trước khi ông kịp lập bảng đánh dấu phân loại màu sắc trên quả cầu của mình. Mô hình qủa cẩu hoà sắc của Johannes Itten (1888 – 1967)sau này cũng rất giống mô hình của Runge.

Bán cầu màu sắc của Chevreul

Thừa kế quả cầu màu sắc của Runge, năm 1839 nhà hóa học PhápMichel Eugène Chevreul (1786 – 1889) đã đề xuất mô hình bán cầu màu sắc. Ông chia đường xích đạo của mặt cầu thành 6 phần bằng nhau dành cho 3 màu sơ cấp đỏ, vàng, lam và 3 màu thứ cấp da cam, lục, tím. Mỗi phần màu lại được chia thành 12 sắc, tổng cộng có 72 sắc được xếp quanh xích đạo. Độ sáng tối của mỗi sắc được xác định thông qua nhân tố đen (nero factor): đen nhất ở bề mặt bán cầu, càng vào tâm càng trắng dần. Trục vuông góc với mặt phẳng xích đạo (tức trục từ cực bắc tới tâm quả cầu) chỉ có 2 màu đen trắng chuyển từ đen ở đỉnh tới trắng tại tâm.

BÀI VIẾT GẦN ĐÂY

Cát Mộc Healthcare Design (CHD) - Thương hiệu chuyên nghiên cứu và thiết kế các công trình bệnh viện, phòng khám và trung tâm y tế tại Việt Nam

BÁO GIÁ TƯ VẤN THIẾT KẾ